↑ Trưởng kiêm (长兼) tức là chưa chánh thức nhiệm chức. Danh xưng này tương đối phổ biến thời Ngụy – Tấn – Nam bắc triều
↑ Quan khẩu (官口) là những nô lệ hay gia đình nô lệ chịu sự quản lý của quan phủ, vốn là tội phạm hoặc tù binh chiến tranh, ở đây Lý Bình đã bỏ qua cho nhiều gia đình bị kết tội ủng hộ Nguyên Du, không khép họ vào Quan khẩu
↑ Lương dân và Tiện dân. Thời Hán – Tấn – Nam bắc triều, lương dân tức là bình dân, tiện dân tức là nô lệ; chỉ đến đời Minh – Thanh, xã hội không còn nô lệ, tiện dân mới hoàn toàn được hiểu là những người có nghề nghiệp thấp hèn trong xã hội (VD: hạ tam lạm, hạ cửu lưu)
↑ Hạp Thạch có 2 thành, ở 2 bên bờ đông – tây của sông Hoài, theo đó mà đặt tên